Chương II Hiến pháp năm 2013 trong việc ghi nhận và thực thi các công ước quốc tế về quyền con người tại Việt Nam được thể hiện ở một số điểm chủ yếu sau đây:
1. Hiến pháp năm 2013 đã đổi tên Chương là “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân”, so với tên gọi cũ của Chương này trong Hiến pháp năm 1992 là “quyền và nghĩa vụ công dân”. Từ xác định tên Chương, Hiến pháp năm 1992 chỉ bàn chủ yếu đến quyền công dân, chưa bao quát hết nội dung cần có là quyền con người. Hiến pháp năm 2013 đã khắc phục nhược điểm này, đã hiến định những yêu cầu cơ bản về bảo đảm quyền con người và quyền công dân, trong đó quyền con người lần đầu tiên được đưa vào tên Chương ở cụm từ đầu tiên trong tên gọi của Chương.
2. Hiến pháp năm 2013 đã chuyển Chương “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân” từ vị trí Chương 5 trong Hiến pháp năm 1992 lên vị trí Chương 2. Việc chuyển đổi vị trí của Chương không thuần túy là động tác kỹ thuật, sự chuyển đổi này cho thấy các nhà lập hiến đã nhận thức rõ về tầm quan trọng của chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp. Kinh nghiệm lập hiến của các nước trên thế giới cho thấy nhiệm vụ chủ yếu của Hiến pháp là quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và xác định phạm vi quyền lực nhà nước. Xuất phát từ tư duy mới về Hiến pháp, kinh nghiệm lập hiến và tình hình thực tế, nội dung quyền con người quyền công dân đã “… được đưa lên vị trí trang trọng hàng đầu trong Hiến pháp” (Nguyễn Sinh Hùng).
3. Quyền con người và quyền công dân là hai khái niệm cùng loại, đồng dạng nhưng không đồng nhất mà có những giá trị xã hội khác nhau. Hiến pháp năm 2013 không còn đồng nhất quyền con người và quyền công dân như ở Điều 50 Hiến pháp năm 1992 khi quy định quyền con người “…thể hiện ở quyền công dân”. Hiến pháp năm 2013 đã sử dụng cả 2 thuật ngữ “quyền con người” và “quyền công dân” với những nội dung được xác định rõ ràng, thể hiện các quyền và tự do hiến định để bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân. Quan điểm khẳng định mạnh mẽ giá trị, vai trò quan trọng của quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013 là một quan điểm được đồng thuận cao trong lần thảo luận để ban hành Hiến pháp lần này ở Việt Nam.
Nếu Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định chủ thể quyền là công dân thì Hiến pháp năm 2013 quy định chủ thể quyền không chỉ là công dân mà quyền của con người, của mọi người, quyền của mỗi người đều có chứ không chỉ công dân. Như vậy, với những quyền này, không chỉ công dân Việt Nam mà tất cả, mọi người, mỗi người với tư cách thành viên xã hội, người nước ngoài có mặt trên lãnh thổ Việt Nam… cũng được Hiến pháp và pháp luật Việt Nam bảo đảm quyền con người. Hiến pháp năm 2013 xác định rất rõ ràng về tính riêng biệt của quyền con người, quyền công dân. Trong 36 điều của Chương II khi dùng “mọi người” tức là chủ thể của quyền con người, bao gồm cả công dân. Quyền con người nói chung (bao gồm cả công dân) được nhắc đến trong “mọi người”, trong tất cả những “không ai”, “tổ chức, cá nhân”, “Người Việt Nam ở nước ngoài”, “người nước ngoài cư trú ở Việt Nam”. Trong tất cả những điều khoản không nhắc đến chủ thể hoặc đối tượng cụ thể thì đều được hiểu chủ thể của quyền không chỉ là công dân. Những quy định mới này phù hợp với Luật nhân quyền quốc tế, các điều ước quốc tế về nhân quyền và với chủ trương, chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế toàn diện của Đảng, Nhà nước Việt Nam.
4. Nếu Hiến pháp năm 1992 chỉ đề cập đến nghĩa vụ tôn trọng ở Điều 50, thì Hiến pháp năm 2013 đã mở rộng ghi nhận cả ba nghĩa vụ của nhà nước là nghĩa vụ tôn trọng, nghĩa vụ bảo vệ và nghĩa vụ bảo đảm thực hiện quyền con người. Quy định này được thể hiện trong các Điều 3 và Điều 14 Hiến pháp năm 2013 tương ứng với các quy định về nghĩa vụ quốc gia trong Luật nhân quyền quốc tế. Sự bổ sung mới này của Hiến pháp năm 2013 có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ bảo đảm sự hài hòa giữa pháp luật Việt Nam với luật nhân quyền quốc tế mà còn tạo cơ sở hiến định ràng buộc các cơ quan nhà nước phải thực hiện đầy đủ và nghiêm túc những nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà nước về quyền con người, quyền công dân trong thực tế, đặc biệt là hai nghĩa vụ bảo vệ và bảo đảm thực hiện chứ không chỉ là tôn trọng chung chung như cách hiểu của Điều 50 Hiến pháp năm 1992.
5. Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên quy định nguyên tắc về giới hạn quyền tại khoản 2 Điều 14 mà trong các Hiến pháp trước đây quy định chưa rõ. Đây là nguyên tắc đã được nêu trong Luật nhân quyền quốc tế và trong Hiến pháp của một số quốc gia, chẳng hạn tại Điều 29 Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948, Điều 4 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966 và một số điều trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966.
Việc hiến định nguyên tắc giới hạn quyền ở Điều 14 Hiến pháp năm 2013 có ý nghĩa quan trọng: (i) Làm sâu sắc hơn tinh thần của Luật nhân quyền quốc tế là các nhà nước phải tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện các quyền con người ngay cả khi nhà nước đặt ra và áp dụng những giới hạn một số quyền nhằm thực hiện chức năng của nhà nước là quản lý xã hội, nhằm bảo đảm các quyền, lợi ích chung của cộng đồng và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân khác; (ii) Ngăn chặn khả năng lạm dụng quyền lực nhà nước để vi phạm quyền con người, quyền công dân, thông qua việc ấn định những điều kiện chặt chẽ việc giới hạn quyền. Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong việc ngăn ngừa các cơ quan nhà nước tùy tiện giải thích và hạn chế các quyền hiến định mà đã xảy ra khá nhiều ở Việt Nam, bởi nó nêu rõ những lý do có thể được sử dụng để hạn chế quyền, cùng với việc giới hạn chủ thể duy nhất là Quốc hội mới có thể quyết định việc này (bằng luật), chứ không phải bất cứ cơ quan nhà nước nào (bằng pháp luật) như trong Hiến pháp năm 1992. (iii) Phòng ngừa những suy nghĩ và hành động cực đoan trong việc hưởng thụ các quyền mà không chú ý đến quyền và tự do của người khác và xã hội..
Chương II Hiến pháp năm 2013 khẳng định và bảo đảm tôn trọng quyền và tự do của mỗi người, đồng thời đòi hỏi mỗi người thực hiện quyền trong mối quan hệ tôn trọng quyền và tự do của người khác. Điều 15 Hiến pháp năm 2013 quy định: Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng tự do của người khác… Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
6. Thực hiện nguyên tắc kế thừa và phát triển trong sửa đổi bổ sung Hiến pháp, Chương II Hiến pháp năm 2013 đã củng cố hầu hết các quyền được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 nhưng quy định rõ hơn hoặc được tách thành các điều riêng cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn và các quy định trong các điều ước quốc tế về nhân quyền. Nhiều quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định trong các Hiến pháp trước đây đã được bổ sung, hoàn thiện, làm mới theo tư duy mới hoặc tách ra thành các điều riêng như các quyền: Bình đẳng trước pháp luật (Điều 16); Cấm tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình (Điều 20 khoản 1); Bảo vệ đời tư và nơi ở (Điều 21, 22); Tiếp cận thông tin (Điều 25); Tham gia quản lý nhà nước và xã hội (Điều 28); Bình đẳng giới (Điều 26); Bỏ phiếu trong trưng cầu ý dân (Điều 29); Tố tụng công bằng(Điều 31); Sở hữu tư nhân (Điều 32); Lao động, việc làm (Điều 35). Các quy định này trong Hiến pháp không chỉ thể hiện rõ hơn nội hàm khái niệm và nội dung các quyền mà còn nâng cao tính khả thi của những quy định về quyền ngay trong Hiến pháp.
7. Chương II Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận một số quyền mới mà Hiến pháp năm 1992 và các Hiến pháp trước đó của Việt Nam đều chưa đề cập, nhưng những nội dung này đã được xác định rõ ràng trong các điều ước quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam là thành viên, bao gồm: Quyền sống (Điều 19); Các quyền về văn hóa (Điều 41); Quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42); Quyền sống trong môi trường trong lành (Điều 43); Quyền của công dân không bị trục xuất, giao nộp cho nước khác (Điều 17 khoản 2); Quyền có nơi ở hợp pháp (Điều 22); Quyền hưởng an sinh xã hội (Điều 34)… Những quyền mới này đã mở rộng phạm vi bảo vệ, bảo đảm thực hiện của Hiến pháp với các quyền con người, quyền công dân trên cả hai lĩnh vực: dân sự, chính trị (Điều 21, 17, 42) và kinh tế, xã hội, văn hóa (Điều 41, 42, 43, 22, 34) ở nước ta, phù hợp với Luật nhân quyền quốc tế. Nhiều quyền mới được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 đáp ứng những nhu cầu mới về quyền con người nảy sinh trong thời kỳ đổi mới đất nước (Điều 43, 22, 34) và hội nhập quốc tế (Điều 17, 41, 42, 22) của Việt Nam.
8. Nội dung về quyền được tố tụng công bằng trong Điều 72 Hiến pháp năm 1992 được mở rộng đáng kể trong Điều 31 Hiến pháp năm 2013. Được xét xử công bằng là một giá trị xã hội quan trọng trong chế định pháp lý về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân. Trong Hiến pháp năm 1992, quyền được tố tụng công bằng chỉ bao gồm các yếu tố: suy đoán vô tội; bồi thường thiệt hại vật chất và phục hồi danh dự cho người bị oan sai trong tố tụng; xử lý nghiêm minh người thi hành tố tụng gây oan sai. Trong Hiến pháp năm 2013, ngoài những nội dung đã nêu trên đây còn bao gồm những nội dung khác như: xét xử kịp thời, công bằng, công khai; không bị kết án hai lần cho cùng một tội phạm; quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa… Việc mở rộng nội dung này phù hợp với yêu cầu thực thi Luật nhân quyền quốc tế và các quy định của các công ước quốc tế về quyền con người tại Việt Nam.
9. Sở hữu tư nhân là vấn đề thường xuyên được thảo luận và đề cập trong các Hiến pháp trước đây, đến Hiến pháp năm 2013 đã đem lại những nhận thức pháp lý mới. Chủ thể của quyền sở hữu tư nhân trong Hiến pháp năm 2013 đã được mở rộng từ “công dân” trong Hiến pháp năm 1992 sang “mọi người” trong Điều 32 Hiến pháp năm 2013, nghĩa là không chỉ công dân Việt Nam mà mọi người sống trên đất nước Việt Nam đều có quyền về tài sản và nhân thân phi tài sản. Sự mở rộng này phù hợp với thực tế thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, tham gia và đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế, khi mà các thể nhân, pháp nhân nước ngoài hiện diện làm ăn, sinh sống ngày càng nhiều ở nước ta, họ cũng phải được bảo vệ quyền tư hữu tài sản và tư liệu sản xuất, đây là một trong những tiền đề cơ bản nhất để mọi người có thể yên tâm làm ăn, sinh sống ở Việt Nam.
10. Lao động và việc làm là một trong những quyền trọng tâm của hệ thống quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân. Chương II Hiến pháp năm 2013 đã thay thế những quy định dài dòng, mang tính hô hào, “khẩu hiệu” về lao động, việc làm trong Điều 55, 56 Hiến pháp năm 1992, thay vào đó là những quy định thực chất hơn, rõ ràng hơn, đặc biệt là bám sát các điều khoản liên quan trong Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966. Cụ thể, theo Điều 35 Hiến pháp năm 2013 thì quyền về lao động, việc làm bao gồm: quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc; quyền được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi. Điều 35 Hiến pháp năm 2013 quy định nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động… Những quy định mới và rõ ràng này trong Hiến pháp năm 2013 có giá trị xã hội to lớn bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong điều kiện phân công lại lao động xã hội, tái cấu trúc nền kinh tế và hội nhập kinh tế thế giới đang diễn ra sôi động trên đất nước ta.
11. Chương II Hiến pháp năm 2013 khắc phục được một số điểm của Hiến pháp năm 1992 đã bị không ít nhà nghiên cứu phê phán là nặng về quy định các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa mà xem nhẹ quy định các quyền chính trị, dân sự. Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung mới rất nhiều quyền dân sự, chính trị theo yêu cầu của Luật nhân quyền quốc tế như: Quyền sống, quyền không bị bắt làm nô lệ, quyền không bị lao động cưỡng bức, quyền không bị tra tấn, đánh đập, xúc phạm nhân phẩm, quyền xác định dân tộc, quyền sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, quyền tự do lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp, quyền về môi trường … Có thể nói 36 điều của Chương II Hiến pháp năm 2013 đã bao quát khá đầy đủ các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa trong Bộ luật nhân quyền quốc tế.
12. Chương II Hiến pháp khẳng định, quy định rõ hơn và làm sâu sắc hơn quyền dân chủ trực tiếp của Nhân dân trong việc tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước (Điều 28), biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 29). Có thể nói, trưng cầu ý dân là một hình thức dân chủ trực tiếp quan trọng, vì một mặt bảo đảm quyền của Nhân dân với tư cách là chủ thể của quyền lực nhà nước, mặt khác bảo đảm cho những quyết định về các vấn đề hệ trọng của đất nước được thông qua một cách dân chủ hơn, cẩn trọng hơn, chính đáng hơn. Quy định này cũng thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước ta, thể hiện quyền công dân trong việc tham gia quản lý nhà nước và xã hội.
13. Chương II Hiến pháp năm 2013 đặc biệt nhấn mạnh trách nhiệm của nhà nước và sự cam kết của nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân. Điều 14 Hiến pháp năm 2013 là sự cam kết vững chắc về vai trò của Hiến pháp và pháp luật bảo đảm quyền con người. Điều 24 xác định: “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”. Điều 26 xác định: “Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò…”. Điều 28 xác định: “Nhà nước tao điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội”. Điều 36: “Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em”. Điều 37: “Trẻ em, thanh niên, người cao tuổi được nhà nước chăm sóc,, tạo điều kiện, bảo trợ” … Không ít các cam kết như vậy không chỉ thể hiện ở Chương II mà đã được thể hiện cả ở Chương I và các Chương sau của Hiến pháp năm 2013.
Nghiên cứu trao đổi (trích theo https://moj.gov.vn/qt/cacchuyenmuc)